Cây Mắc ca còn có tên gọi là cây quả cứng Hawaii. Mắc ca là loại cây gỗ lớn, tên khoa học là Macadamia, thuộc họ Protaceae là loài cây ăn quả có giá trị kinh tế cao; cho quả có nhân chứa nhiều chất dinh dưỡng, hàm lượng dầu tới 78%. Trong dầu Mắc ca có trên 87% là axit béo không no, hàm lượng protein trong nhân lên tới 9,2%, cùng 20 loại axít amin rất cần thiết cho cơ thể… Nhân hạt Mắc ca được dùng làm thực phẩm cao cấp, dầu được dùng trong các loại mỹ phẩm, rất được ưa chuộng ở thị trường Âu Mỹ.
Cây Mắc ca đã được nhập về trồng ở Việt Nam, trồng thử nghiệm đầu tiên tại Ba Vì (Hà Nội) sau đó được trồng thử nghiệm tại Con Cuông (Nghệ An), Tràng Định (Lạng Sơn), Uông Bí (Quảng Ninh), Mai Sơn (Sơn La), Đồng Hới (Quảng Bình), Krông Năng (Đắc Lắc), Đắc Plao (Đắc Nông), Đại Lải (Vĩnh Phúc). Sau khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận một số giống Mắc ca mới, Dự án: “Xây dựng mô hình trồng thâm canh cây Mắc ca tại Tây Bắc và Tây Nguyên” xây dựng được các mô hình sử dụng giống Mắc ca ghép có năng suất cao, các giống đã được công nhận sinh trưởng phát triển tốt, phù hợp với vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Tại Việt Nam, có nhiều vùng khí hậu với diện tích lớn hàng triệu héc ta, đáp ứng được yêu cầu khí hậu và thổ nhưỡng này. Qua thực tế phát triển Mắc ca, đã chứng tỏ vùng Tây Nguyên và Tây Bắc của Việt Nam rất phù hợp với cây mắc ca. Ngoài ra, có thể có một số tiểu vùng miền núi cao phía Tây của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hóa và phía Tây của nhiều tỉnh khác có điều kiện khí hậu mát mẻ, á nhiệt đới cũng có thể phát triển được mắc ca. Sản phẩm có giá trị kinh tế là quả Mắc ca. Tuổi thọ kinh doanh khoảng 40-60 năm. Đặc điểm chung của loài là rễ cọc kém phát triển. Cây có tán rộng, rễ nông vì vậy cây chịu gió bão kém.
1. Mô tả cây Mắc ca
Đây là cây gỗ lớn thường xanh cao tới 18m, tán rộng tới 15m. Cây Mắc ca có hai loại là Mắc ca vỏ hạt nhám (Macadamia tetraphylla) và vỏ hạt nhẵn (Macadamia integrifolia). Lá có hai loại là mép nguyên và lá có mép có răng cưa. Hoa nở rộ từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (có khi kéo dài đến tháng 4), hoa tự bông dài từ 15-25cm, mỗi chùm hoa chỉ đậu từ 5-14 quả. Hoa màu trắng hay hồng. Hoa Mắc ca không phát ở đầu cành mà mọc ra từ nách lá cành 1,5-2 tuổi hoàn toàn độc lập với phát lộc cành non.
Quả hình trái đào hoặc tròn như hòn bi, khi chín vỏ quả ngoài bắt đầu khô và hơi nứt vẫn còn màu xanh vỏ quả trong biến đổi từ màu trắng hoặc nâu nhạt sang màu nâu thẫm, bên trong vỏ ngoài của quả xuất hiện những chấm đen, ngoài quả xuất hiện những chấm đen. Phần lớn các dòng mắc ca hiện nay khi chín quả mắc ca sẽ tự rụng xuống (trừ dòng OC). Vỏ hạt màu nâu rất cứng, nhân hạt màu trắng sữa.
2. Đặc điểm sinh trưởng
– Nhiệt độ và độ ẩm không khí, đây là 2 yếu tố tiên quyết sẽ quyết định đến việc cây Mắc ca có thể ra hoa, kết quả được hay không tại một vùng cụ thể nào đó và cũng chính là nguyên nhân chủ yếu hạn chế việc mở rộng khu vực trồng trên thế giới.
+ Nhiệt độ để cây sinh trưởng lựa chọn vùng gây trồng có nhiệt độ không thấp hơn 130C và không cao hơn 320C (nhiệt độ tốt nhất cho sinh trưởng là 20-250C)
+ Nhiệt độ để hình thành mầm hoa: Hoa của Mắc ca phát dục qua 3 thời kỳ: Thời kỳ hình thành mầm hoa, thời kỳ vươn dài của hoa và thời kỳ nở hoa. Đối cây Mắc ca quan trọng là thời kỳ hình thành mầm hoa. Để hình thành mầm hoa đòi hỏi sự kích thích của nhiệt độ thấp, trong thời kỳ này nhiệt độ ban đêm từ 14 – 210C kéo dài từ 4 – 5 tuần cây ra hoa nhiều. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thực tế nếu nhiệt độ bình quân ban đêm thời kỳ này 180C thì mắc ca ra hoa quá nhiều, tiêu hao quá nhiều dinh dưỡng dự trữ đã dẫn tới tỷ lệ đậu quả không cao. Vì vậy nhiệt độ bình quân ban đêm khoảng 20-210C trong thời kỳ này có thể có lợi hơn cho sản lượng quả.
+ Độ ẩm không khí: Mắc ca rất nhạy cảm với độ ẩm không khí vào thời kỳ ra hoa, đậu quả. Nếu ra hoa gặp độ ẩm không khí cao, hoa sẽ rụng rất nhiều. Vì vậy ở những vùng có mưa phùn kéo dài nhiều ngày từ tháng 2 đến tháng 4 sẽ không mong có được năng suất quả cao, thậm chí hoa bị rụng hoàn toàn vào những năm ẩm ướt nhiều trong vụ xuân.
– Lượng mưa thích hợp khoảng 1500 – 2500mm.
– Đất: Có tầng canh tác sâu 1m, tơi xốp, thoát nước tốt, đất không bị chặt, PH thích hợp là 5-6.
– Địa hình: Nên trồng cây ở vùng đất dốc dưới 150 trở xuống.
– Gió: Nên chọn địa điểm trồng có ít gió bão. Cần thiết phải trồng xen với cây chắn gió có thân cao hoặc trồng 1 đến 3 hàng cây chắn gió xung quanh khu vực trồng cây Mắc ca.
– Cây Mắc ca là cây ưa sáng, vì vậy không được trồng dưới tán cây khác.
3. Kỹ thuật trồng cây Mắc ca
3.1. Cây giống: Đến thời điểm này, nước ta đang sử dụng 25 dòng Mắc ca, trong đó:
– 13 dòng Mắc ca đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận gồm OC, Daddow, 246, 695, 741, 800, 816, 842, 849, 900, A38, A16, QN1. Tuy nhiên trong 13 dòng đã được công nhận có dòng OC có nhiều hạn chế và hiện nay không khuyến khích trồng
– 12 dòng Mắc ca chưa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận H2, 788, 344, 508, 660, 749, 856, A4, A203, O2, JW (Trung Quốc), S1 (Thái Lan). Tuy nhiên, trong các dòng chưa được công nhận có nhiều dòng thực tế tốt và thích hợp trồng tại Việt Nam như 788, 344, 749…
– Để có năng suất cao, ổn định nên trồng cây ghép các dòng nêu trên. Cây giống đem trồng phải là cây ghép, không trồng giống thực sinh (cây ươm từ hạt). Cây giống phải có chiều cao từ 60cm đến 1m. Cây ghép có chồi ghép đã liền vết sẹo, chồi ghép mọc cao 25-30cm.
– Phối hợp dòng, tuy phần lớn cây mắc ca đậu quả nhờ tự thụ phấn, nhưng ở mắc ca hoa có hiện tượng tự thụ bất dục ở mức độ đáng kế. Kinh nghiệm cho thấy vì vậy khi trồng nên bố trí trồng hỗn hợp từ 2 dòng trở lên năng suất quả sẽ cao hơn. Mặt khác, ở vườn Mắc ca cần phát triển nuôi ong mật giúp truyền phấn sẽ tăng tỷ lệ đậu quả.
3.2. Thời vụ trồng: Đối với vùng Tây Nguyên nên trồng vào đầu mùa mưa (tháng 6 – 7 hàng năm), đối vùng các tỉnh phía Bắc nên trồng vào vụ xuân. Tại các vùng có mùa khô và mùa mưa rõ rệt như Tây Bắc hoặc vùng cao của Trường Sơn, cần kịp thời trồng ngay sau những trận mưa đầu mùa
3.3 Mật độ: Tùy theo giống cây, vị trí vườn cây mà chọn mật độ trồng phù hợp.
Mật độ trồng thuần từ 200 – 300 cây/ha (278 cây/ha khoảng cách trồng là 9m x 4m; 222 cây/ha khoảng cách trồng là 9m x 5m; 200 cây/ha khoảng cách trồng là 10m x 5m)
Nếu trồng cây Mắc ca xen trong vườn cây công nghiệp chè, cà phê thì trồng khoảng 70 cây/ha (khoảng cách 12m x 12m).
3.4. Đào hố, bón lót: Sau khi quy hoạch vùng trồng, phát dọn thực bì, làm cỏ, làm đất, nếu đất dốc phải tạo bậc thang theo đường đồng mức.
– Đào hố: Kích thước hố trồng là: 1 x 1 x 1m hoặc 0,8 x 0,8 x 0,8m. Lớp đất đáy để một bên, lớp đất mặt để một bên rồi phơi ải khoảng 15-20 ngày mới lấp hố.
– Bón lót: Phân chuồng hoai mục khoảng 15 kg/hố, 0,25 –0,5kg vôi bột trộn đều với phần đất mặt sau đó lấp xuống hố trước. Phần đất đáy còn lại lấp phía trên cho đầy hố. Đào đất, lấp hố hòan thành trước khi trồng khoảng 15- 20 ngày.
3.5. Kỹ thuật trồng: Để trồng cây Mắc ca đạt năng suất quả cao cần phải trồng phối hợp các dòng khác nhau. Có thể bố trí trồng 03 dòng khác nhau liên tiếp rồi tiếp tục trồng lập lại như vậy.
– Khi mua cây giống về nên để cây nơi râm mát, tưới nước giữ ẩm, khi bộ rễ đã ổn định thì đem cây đi trồng.
– Trồng cây: Vận chuyển cây nhẹ nhàng tránh làm vỡ bầu đất, đào một lỗ lớn hơn bầu đất giữa hố, xé bỏ vỏ nilon đặt cây ngay ngắn lấp đất lèn chặt. Lấp đất kín mặt bầu theo hình mâm xôi để tránh bị úng nước. Trước và sau khi trồng cây bỏ thuốc Basudin… vào trong hố và rải trên mặt đất quanh gốc cây để phòng trừ mối hại. Cắm cọc cố định thân cây Mắc ca vào để tránh bị gió làm lay gốc.
Vì cây Mắc ca chịu gió bão kém nên trồng cây chắn gió từ 2 đến 3 hàng bao xung quanh.
* Lưu ý: Việc trồng cây phải trồng ở chính giữa hố đã được lấp trước đó, không được trồng cây mắc ca bị âm xuống đất, nên chú ý trồng bằng mặt hố. Khi trồng tốt nhất nên để phần mối ghép cách mặt đất từ 20-25 cm để tránh bị nhiễm khuẩn,lây bệnh
3.6. Kỹ thuật chăm sóc: Sau khi trồng cây 20-30 ngày tiến hành kiểm tra, trồng dặm cây bị chết; chỉnh sửa ngay ngắn cây bị nghiêng đổ.
Khoảng 30 – 40 ngày sau khi trồng tiến hành phát dọn dây leo, làm cỏ xới đất quanh gốc đường kính 0,8-1m. Lần 2 cách lần 1 từ 40 – 50 ngày. Hàng năm trước khi bón phân, tiến hành làm cỏ, xới đất.
3.7. Bón thúc: Hoa và trái mắc ca
– Giai đoạn trước khi cây ra hoa:
+ Năm thứ nhất: Bón phân vào rãnh quanh gốc (rãnh sâu khỏang 5-10cm cách gốc 25-30cm). Mỗi lần bón 100gram/gốc NPK 16-16-8-13S sau khi bón phân lấp đất lại. Bón thúc lần 2 cách lần 1 từ 40 – 50 ngày .
+ Năm thứ hai, thứ ba: Bón phân 2 lần vào đầu và gần cuối mùa mưa. Bón phân vào rãnh quanh gốc (rãnh sâu khỏang 5-10cm cách gốc 30-40cm). Mỗi lần bón 120gram/gốc NPK 16-16-8-13S sau khi bón phân lấp đất lại.
– Giai đoạn khi cây ra hoa, đậu quả: Bón phân 3 lần vào giai đoạn trước khi cây ra hoa, cây đang ra trái và sau khi thu hoạch. Lượng phân tăng dần theo năm, bón phân theo đường hình chiếu tán lá. Xới đất thành rãnh sâu 10-15cm, rộng 20cm, sau khi bón phân thì lấp đất lại. Bón khoảng 20-30 kg phân chuồng hoai 1 lần/năm vào giai đoạn trước khi cây ra hoa.
3.8. Tỉa cành, tạo tán: Tỉa cành tạo tán tạo dáng cho cây trong 03 năm đầu và hàng năm, sau khi thu hoạch quả cần tỉa cành tạo tán, tỉa bỏ cành yếu sâu bệnh để cây được thông thoáng, giảm sâu bệnh hại.
4. Trồng xen cây ngắn ngày.
Trong những năm đầu, khi cây Mắc ca chưa khép tán nên trồng xen cây hoa màu, đậu, bắp, khoai mì… để hạn chế cỏ dại, giữ ẩm, tăng thu nhập trước mắt trước khi cây Mắc ca cho thu hoạch quả. Hàng cây trồng xen cách gốc cây Mắc ca khoảng 1m, không để cây trồng xen che bóng cây Mắc ca.
5. Phòng trừ sâu bệnh hại
5.1. Bệnh hoa:
– Triệu chứng: đầu tiên xuất hiện một số đốm màu vàng tối trên đài hoa, sau đó cả hoa bị khô héo, hoa bị khô rồi rụng. Trong điều kiện mưa ẩm những hoa bị nhiễm bệnh biến sang màu nâu xám đến màu đen.
– Cách phòng trị: Không nên trồng cây quá dày. Cây chớm bị bệnh phun thuốc có hoạt chất Benomyl, Carbendazim, Thiophanate-methyl,… nếu phun chậm thì không có tác dụng.
5.2. Bệnh vỏ quả có nốt:
– Triệu chứng: Đầu tiên xuất hiện nốt màu vàng nhạt trên vỏ quả, dần biến thành màu vàng đậm rồi màu nâu lan rộng từ 5-15mm. Khi khuẩn xâm nhập vào phía trong của vỏ nó chuyển sang màu nâu đen.
– Cách phòng trị: Phun Cupric Hydroxide Cu(OH)2 77% pha loãng 300 – 800 lần phun lên toàn bộ quả hoặc cục bộ lô bị bệnh, mỗ tháng 1 lần, trong ba tháng liền.
5.3. Bệnh hại thân cây:
– Triệu chứng: Bệnh hại chủ yếu thân cây và cành cây, do hai loại nấm dịch mao khuẩn và hai bào khuẩn mao sắc. Bệnh thường lây lan do tác động cơ giới lan truyền vào vết thương thân cây. Khi đã nhiễm bệnh thì lá, cành bị chết khô và dần cây cũng bị chết.
– Cách phòng trị: Dùng sơn trắng trộn với Cupric Hydroxide Cu(OH)2 (30% hydroxit đồng 100gr/lít) sơn vào chỗ vị trí từ độ cao 35cm trở xuống gốc cây, nếu cây đã bị nhiễm bệnh dùng hỗn hợp Metalaxyl nồng độ 0,4% và Thiophanate-methyl nồng độ 0,2% với sơn trắng phết vào chỗ bị bệnh mỗi tuần một lần, liên tục ba lần.
5.4. Côn trùng:
– Cần phun phòng định kỳ, không nên phun thuốc lúc cây ra hoa. Giai đoạn cây ra trái non, côn trùng thường chích hút quả non làm quả bị những nốt thâm và nứt vỏ quả.
6. Thu hoạch hạt Mắc ca
Cây ghép sau 3-4 năm trồng bắt đầu cho quả bói. Cây trồng sau 10 năm bắt đầu cho năng suất ổn định. Mùa thu hoạch quả thông thường từ tháng 7 đến tháng 9. Riêng khu vực Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và một số khu vực có điều kiện khí hậu giống Đà Lạt hiện tượng ra hoa quả quanh năm (trên một cây có thể có cả hoa và quả), điều này có lợi cho nhân công thu hoạch nhưng bất lợi cho việc chăm sóc, cũng như chất lượng hạt mắc ca. Quả hình trái đào hoặc tròn như hòn bi, khi chín vỏ quả ngoài bắt đầu khô và hơi nứt vẫn còn màu xanh vỏ quả trong biến đổi từ màu trắng hoặc nâu nhạt sang màu nâu thẫm, bên trong vỏ ngoài của quả xuất hiện những chấm đen. Phần lớn các dòng mắc ca hiện nay khi chín quả mắc ca sẽ tự rụng xuống (trừ dòng OC). Vì vậy, tuyệt đối không được tự hái quả trên cây khi quả chưa chín sẽ giảm chất lượng hạt. Quả sau khi thu hoạch cần bóc vỏ ngay trong 24 giờ. Sau đó vận chuyển ngay đến nhà máy chế biến để sấy khô hoặc sấy tại nhà. Việc sấy khô cần làm trong hai tuần sau khi thu hoạch.